1900 6665

VỢ, CHỒNG CÓ CÔNG TY RIÊNG, KHI LY HÔN CÓ ĐƯỢC CHIA?

Vấn đề xác định thế nào là tài sản chung, tài sản riêng, cách thức phân chia tài sản chung khi ly hôn đã được Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, cũng như các văn bản liên quan hướng dẫn. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định tài sản chung, tài sản riêng khi ly hôn luôn là vấn đề băn khoăn của nhiều cặp vợ chồng. Chẳng hạn như câu hỏi dưới đây:

Chào luật sư, vợ chồng tôi kết hôn đã hơn 10 năm, trong thời gian ấy, tôi đã ở nhà 8 năm để sinh con và làm các công việc nội trợ, tôi chỉ mới đi làm lại khoảng 2 năm nay. Trong hơn 10 năm qua thì chồng tôi có vay mượn từ nhiều nguồn khác nhau và thành lập một công ty về dịch vụ in ấn, cho đến nay, công ty khá phát triển. Xuất phát từ vấn đề tài chính, vợ chồng tôi đã mâu thuẫn trầm trọng, nay chúng tôi quyết định ly hôn, tôi yêu cầu được chia công ty mà chồng tôi đang quản lý, sở hữu. Tuy nhiên anh ta không đồng ý, anh ta cho rằng công ty ấy là do tự anh ta đứng ra vay mượn vốn, tự điều hành, quản lý, do anh ta làm đại diện theo pháp luật và đó là tài sản riêng của một mình anh ta. Luật sư cho tôi hỏi tôi có thể được chia phần trong công ty của chồng tôi không? Tôi xin cảm ơn.

Trả lời:

Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu riêng của người đó và không phải chia khi ly hôn, trừ trường hợp vợ, chồng có thỏa thuận khác (chẳng hạn vợ chồng thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung). Ngược lại, nếu một tài sản nào đó được xác định là tài sản chung thì sẽ các bên được quyền thỏa thuận phân chia, nếu không đạt được sự thỏa thuận thì vợ chồng có thể yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia theo quy định của pháp luật.

Vấn đề mà chúng ta cần quan tâm ở đây là công ty mà người chồng tạo lập, quản lý, là người đại diện theo pháp luật là tài sản chung hay tài sản riêng?

Căn cứ Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì tài sản riêng của vợ, chồng được xác định như sau:

– Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn;

– Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân;

– Tài sản sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhưng được thỏa thuận phân chia theo quy định của pháp luật;

– Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng;

– Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng;

– Tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

Như vậy, công ty mà người chồng tạo lập được trong thời kỳ hôn nhân, mặc dù do người chồng tự làm ăn, tự vay mượn cũng không thuộc các trường hợp kể trên nên được xác định là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

Cạnh đó, Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 cũng quy định rằng:

– Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

– Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Trường hợp này, nếu xác định là tài sản chung mà người chồng không đồng ý chia cho người vợ thì người vợ có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung khi ly hôn.

Thông thường, tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng Tòa án sẽ xem xét đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia:

– Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng: là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.

– Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung: là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.

– Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập: là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự.

– Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng: là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.

Mặc dù công ty do người chồng tạo lập được xác định là tài sản chung và được chia khi ly hôn, tuy nhiên, công ty vẫn thuộc về người chồng, vẫn tiếp tục do người chồng điều hành, quản lý và chỉ phải thanh toán cho người vợ phần giá trị tài sản mà người vợ được hưởng (Điều 64 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014).

guest
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận